Tiếu Ngạo Giang Hồ 2001: Bình mới, rượu cũ, hương vẫn nồng

Có khá nhiều lý do để nhiều người không thích Tiếu Ngạo 2001, trong số đó có thể chia thành 3 nhóm chính như sau:

Thứ nhất là đã đọc qua và yêu thích nguyên tác quá đỗi đến mức không chấp nhận được những chỉnh sửa trong kịch bản và cái kết sai lệch của phim, từ đó xem bản phim 2001 này là một sự thất vọng lớn khi soi vào nguyên tác.

Thứ hai là đã xem qua và cảm thấy ấn tượng hơn với bản Tiếu Ngạo năm 1996 của TVB nói chung và vai diễn Lệnh Hồ Xung của Lữ Tụng Hiền nói riêng. Từ đó đâm ra có sự so sánh khi xem và kết luận sau cùng là thích bản 1996 hơn.

Thứ ba là không có thiện cảm với nhân vật Lệnh Hồ Xung của Lý Á Bằng vì cho rằng đấy là một “Quách Tĩnh thứ hai”. Lệnh Hồ Xung mà giống Quách Tĩnh, diễn xuất nhập nhằng nghiêm trọng giữa hai nhân vật một trời một vực như thế, không thất bại thì gọi là gì?

May thay, tôi không thuộc dạng nào trong ba nhóm trên.

Nguyên tác, tôi chưa đọc qua.

Bản phim Tiếu Ngạo 1996 của TVB, tôi chưa từng xem qua.

Lệnh Hồ Xung của Lý Á Bằng, đủ để khiến tôi có thể quên đi Quách Tĩnh hai năm sau của anh trong suốt thời gian khi xem.

Nói gọn lại một câu, Tiếu Ngạo 2001 là bản phim đầu tiên Đại lục chuyển thể của Kim Dung. Còn tôi khi xem bản phim đầu tiên này cũng là một khán giả lần đầu tiên thực sự biết đến Tiếu Ngạo Giang Hồ của Kim lão gia dù trước giờ cũng đã nghe qua phong thanh về nó ít nhiều. Lần đầu tiên gặp lần đầu tiên, xem ra cái duyên giữa tôi và bản phim này chẳng nhạt chút nào.

Có thể xem một bộ phim trong một sự tập trung nhất và không bị vướng bận bởi bất cứ so sánh hay liên tưởng nào, không phiền lòng vì những lời chê khen trái chiều của lớp khán giả đi trước, và không phải tra xét từng phân từng cảnh để lọc cơm tìm sạn, thật sự là một trải nghiệm tuyệt vời và rất đáng nhớ. Đặc biệt khi đó lại là một phim của Kim Dung, nhà văn mà hầu hết các tác phẩm đều đã được dựng đi dựng lại rất nhiều lần trong mấy mươi năm qua bởi nền phim ảnh của Hồng Kông, Đài Loan, và Đại Lục.

Do đó, sau khi xem xong cả 40 tập phim của Tiếu Ngạo 2001, tôi cảm thấy mình cần phải viết ra tất cả những cảm nhận và suy nghĩ của bản thân, tất cả những điểm ưng ý và chưa hài lòng, tất cả những gì tự bản thân bộ phim đã mang lại cho tôi, như một cách đáp lại tâm ý và công sức của những người đã làm phụ đề Việt ngữ cho phim chỉ vì lòng yêu mến, và như một sự chia sẻ cảm xúc với tất cả những khán giả thật sự của Tiếu Ngạo 2001.

Một trong những điểm khiến tôi yêu mến bản phim này chính là ở phong cách dàn dựng của nó. Có cái gì đó khá thô ráp và nguyên sơ đã hiện diện xuyên suốt 40 tập phim, khiến Tiếu Ngạo 2001 không có được vẻ mượt mà và uyển chuyển như những phim sau này của Trương Kỷ Trung. Một cái gì đó chỉ có ở lần đầu tiên. Là thần thái chăng? Hay là cái cảm giác chân phương không hoa mỹ, không tô son dặm phấn, không tiểu xảo che mắt, không trau chuốt mịn màng? Hay chỉ đơn giản là một sự vụng về và thiếu sót thật sự do non kinh nghiệm, thiếu đầu tư?

Không biết và cũng thật khó để diễn tả điều này vì tôi không phải dân trong nghề, chỉ là cách chuyển cảnh và ngắt phim đôi lúc mang lại cảm giác gãy rất rõ, chỉ là những cảnh quay lớn càng về sau càng trở nên thiếu cuốn hút như lúc đầu, và dàn nhân vật quần chúng hình như chỉ có mỗi thần dân của Thông Nguyên Cốc là được ưu ái nhất mà thôi.

Màu sắc của phim phối hợp theo một tông trầm chủ đạo, không bàng bạc như sương hay lãng đãng như khói mà là sự trầm lắng của bụi mờ. Từ trang phục của nhân vật cho đến những ngoại cảnh trên Tư Quá Nhai, núi Hoa Sơn, Thành Lạc Dương, Ngõ Lục Trúc, Ngũ Bá Sơn, Vô Sắc Am, Thiếu Lâm Tự, Mai Trang… đều mang đậm nét trầm ấy. Trầm và nhã, đẹp như đất và cũng chân chất như đất.

Một trong những cảnh quay khiến tôi xúc động nhất là cảnh Doanh Doanh hát khúc Hữu Sở Tư tiễn Lệnh Hồ Xung đi Phúc Kiến. Một bên là thuyền nhỏ trôi giữa sông nước mênh mang, một bên là đình vắng chìm lấp giữa đồng cỏ lau xào xạc gió chiều. Xung quanh Lệnh Hồ Xung khi ấy có biết bao nhiêu người, lại còn là sư phụ, sư nương, đồng môn sư huynh đệ, nhưng trong lòng anh lại cô đơn khôn xiết. Biển người mênh mông, tri kỷ khó tìm, tri âm khôn gặp.

Trong phim, không ít lần Doanh Doanh hát khúc hát đó, nhưng Hữu Sở Tư chưa bao giờ vang lên đầy da diết và cứa tận tâm gan người nghe, người xem như ở phân cảnh đó. Tôi thích dáng đứng của Lý Á Bằng khi đó, thẫn thờ và tịch liêu, thể hiện được một nội tâm phức tạp và mâu thuẫn của Lệnh Hồ Xung; cũng như ánh mắt anh, đau đáu và khoắc khoải, khiến ta hoàn toàn cảm nhận được nỗi đơn côi và khao khát được trải lòng với người bên cạnh. Đó là một cảnh quay đẹp và hơn hết là giàu cảm xúc, gợi được rất rất nhiều điều cho người xem. Không cần bất cứ lời giã từ sướt mướt hay đưa tiễn bịn rịn nào, tự người xem đã cảm nhận được khoảng thời gian ngắn ngủi ở Ngõ Lục Trúc chiếm một vị trí quan trọng thế nào trong lòng hai nhân vật. Cũng vì thế mà khúc Hữu Sở Tư khi đó, dù vạn người đều nghe thì nó vẫn chỉ thuộc về và thật sự đi vào lòng hai người họ mà thôi.

Quay ngược về những tập phim trước đó thì cánh đồng hoa cải vàng cũng khiến tôi thích thú bởi vẻ đẹp đầy chất thơ và tính biểu cảm do nó mang lại khi lên phim. Đầu tiên là cảnh Nghi Lâm cõng Lệnh Hồ Xung chạy mãi chạy mãi cho đến khi gục xuống và để lạc mất anh. Sau nữa là cảnh Nghi Lâm quỳ giữa đồng hoa thổ lộ cùng Bồ Tát tâm tư lạ lùng trong lòng mình. Sau cùng là một cảnh rất nhiều cảm xúc khi chàng lãng tử bạc hạnh của chúng ta lần đầu tiên buông bỏ mọi phiền muộn của bản thân, thả mình nằm giữa đồng hoa, đối mặt với trời cao lồng lộng.

Chỉ một địa điểm nhưng hai cảnh quay lại mang đến ý nghĩa hoàn toàn khác nhau dù vẫn có điểm tương đồng khi đều vận dụng thủ pháp mượn cảnh tả tình.

Ở Nghi Lâm là lòng rối như tơ vò, lạc bước giữa đồng hoa cũng chính là lạc bước giữa lòng mình.

Ở Lệnh Hồ Xung lại là một sự chơ vơ và lạc lõng cùng cực. Có cái gì đó rất bất lực và phó mặc bản thân cho cuộc đời trong tư thế nằm khi ấy của anh. Thêm vào đó, là góc quay xoáy chậm từ thấp lên cao dần và sắc vàng đến nhức nhối của đồng hoa đã khiến cho cảnh quay ấy đậm chất say như ngây, ngây như say. Và tôi, phải nói rằng mình vô cùng thích nó.

Những cảnh quay xung quanh nhân vật Đông Phương Bất Bại sau này về tính thẩm mỹ không hề thua kém, thậm chí có phần vượt trội do cách phối hợp màu sắc và bối cảnh, song về tính ‘hư ảo’ thì không sánh bằng cảnh ở đồng hoa, và về độ ‘biểu cảm’ thì không khơi gợi được nhiều như cảnh chia tay trên sông. Tuy vậy, tôi khá thích sự bi tráng của nó cũng như cách diễn của nhân vật ĐPBB và một trường đoạn dài chỉ diễn bằng ánh mắt của Lý Á Bằng khi anh chứng kiến cảnh ĐPBB trút hơi thở cuối cùng bên cạnh Dương Đình Liên. Tự mỗi người xem sẽ có suy nghĩ của riêng mình nhưng với tôi, cảnh đó ngoài đẹp và buồn còn mang lại một sự suy ngẫm về thân phận con người và giá trị lớn lao do yêu thương mang lại.

Cảnh Nhạc Linh San qua đời cũng mang đến một nỗi hoài cảm khác, chủ yếu do tâm tư quá phức tạp và đa chiều của những nhân vật có mặt trong cảnh quay này. Từ sự bất ngờ xen chút đề phòng của Lao Đức Nặc, sự hả hê thoáng chút chột dạ của Lâm Bình Chi, sự ngỡ ngàng đến bàng hoàng của Linh San, sự đau đớn đến thống khổ của Lệnh Hồ Xung, và sự thương xót lẫn bao dung của Doanh Doanh. Tôi nghĩ Miêu Ất Ất diễn khá hơn hẳn trong những phân đoạn sau lễ thành thân. Đến cuối cùng, cũng thấy cô đáng thương nhiều hơn đáng trách. Về tình yêu của Nhạc Linh San, nếu có thể, sẽ nói nhiều hơn vào một dịp khác.

Bên cạnh những cảnh đượm buồn, tập trung chủ yếu vào cảnh, nhạc và lối diễn xuất thiên về nội tâm, những đại cảnh mang nhiều màu sắc và cung bậc cảm xúc của phim cũng được chăm chút khá kỹ lưỡng. Đơn cử như cảnh Thông Nguyên Cốc và hàng hàng lớp lớp tà ma ngoại đạo khác ở Ngũ Bá Sơn thiết tiệc đãi Lệnh Hồ Xung nhằm chúc mừng nhân duyên của anh với Thánh Cô. Tôi yêu làm sao cái cách bọn họ hết chuốc rượu lại nhồi thuốc cho đến khi Lệnh Hồ thiếu hiệp nhà ta thân tàn ma dại mới thôi. Tôi yêu làm sao cái sự nhát gan thỏ đế nhưng lại thích nịnh nọt lấy lòng rồi lại co giò chạy ngay khi nghe tin Thánh Cô xuất hiện của bọn họ. Khó mà không bật cười khi xem đoạn Đào Cốc Lục Tiên tranh nhau cái danh “tuấn tú bất phàm”, khó mà không thích thú khi ở đâu bỗng nhiên xuất hiện một vị Tổ Thiên Thu tiên sinh với bộ sưu tập 9 món chén uống rượu cực kỳ quý giá cùng một bồ kiến thức về rượu, khó mà không khoái trá thầm trong lòng khi trước mặt phái Hoa Sơn đang nghi kỵ, khinh khi đủ điều hết người này đến người khác đem lễ vật đến tặng và một câu “Lệnh Hồ thiếu hiệp”, hai câu cũng là “Lệnh Hồ thiếu hiệp”.

Đại cảnh thứ hai cũng rình rang không kém, hài nhưng không kịch là khi đoàn người rồng rắn, cờ xí đủ màu, trống chiêng chập cheng, kéo lên Thiếu Lâm Tự nghênh tiếp Thánh Cô. Vui nhất phải kể đến khi cả bọn bị vây chặt trên núi Thiếu Thất, rồi nhờ Lục Tiên mà tình cờ tìm ra đường hầm thông xuống núi. Thoát hiểm rồi, lại còn đồng thanh hô to ba lần: “Bọn ta đã xuống núi rồi!” Cứ nhìn bộ mặt cố gắng nín nhịn khi đó của Tả minh chủ là lại thấy lo lắng cho đường tiêu hóa của ngài, ha ha.

Cảnh Lệnh Hồ Xung nhậm chức chưởng môn phái Hằng Sơn cũng rất hấp dẫn. Thấy được sự xảo trá của Dương Đình Liên và cái tình của Doanh Doanh. Cảnh Ngũ Nhạc phái tỷ võ chọn người đứng đầu được dựng hay hơn tôi nghĩ. Chỉ có điều, từ cảnh đó về sau, những đại cảnh cần quy mô hoành tráng khác đều tệ đi hẳn. Nhiều lúc nhìn đám quân lèo tèo, mặt mày non choẹt của Nhạc chưởng môn mà thấy nản. Ngũ Nhạc Kiếm phái hợp nhất mà lực lượng chưa xứng so ngang với một phái lúc trước, vô tình khiến cho sự chăm chút kỹ lưỡng của trường đoạn tranh giành chức chưởng môn trước đó trở nên uổng phí.

tn4

Khác với nhiều người không có ấn tượng với nhạc phim, cá nhân tôi lại khá thích bản hòa tấu cầm tiêu Tiếu Ngạo Giang Hồ của Khúc Dương và Lưu Chính Phong trong phim. Có thể nó không được hay như bạn mong đợi, hoặc không hay bằng những bản hòa tấu cầm tiêu trong các bản phim Tiếu Ngạo khác bạn từng xem, nhưng không thể phủ nhận rằng: nó rất vừa vặnphù hợp với bản phim 2001 này. Âm hưởng không bao la bát ngát như trời xanh biển rộng, tiết tấu cũng không khoan thai phóng khoáng như gió cuốn mây bay, và dường như nó sẽ khiến bất cứ ai – những người đã quá trông chờ và có sự liên tưởng ngay từ cái nhan đề Tiếu Ngạo Giang Hồ cảm thấy thất vọng ngay lần đầu tiên nghe thấy. Thật sự, nó vẫn là một tiếng cười đấy, nhưng quá ý nhị và kín đáo đến mức không thể nghe ra được và cảm thấy ngay trong lần đầu tiên cũng như bằng một cách trực tiếp nhất.

Cá nhân tôi nghĩ, Tiếu Ngạo Giang Hồ ở bản phim này mang tinh thần của hai người soạn ra nó hơn là tinh thần của cả bộ phim. Giữa một giang hồ tranh đoạt liên miên, chém giết chẳng ngừng, chỉ việc “Rửa tay chậu vàng” của một Lưu Chính Phong của Bắc nhạc Hành sơn thôi đã gây ra một trường máu đổ. Giữa một giang hồ gió tanh mưa máu như thế, ước vọng của hai vị Khúc-Lưu đó lại đơn sơ và giản dị biết bao: tìm một nơi non xanh nước thẫm nào đó để sống quãng đời còn lại một cách thật thanh nhàn, tiêu dao, ngày ngày cùng nghiên cứu âm luật, cầm tiêu hòa tấu.

Sự đối lập lạ lùng ấy, chẳng khiến chúng ta vừa nghe qua phải bật cười hay sao?

Sự đối lập lạ lùng đến mức ngô nghê ấy – chẳng khác nào bọn diều, quạ tranh nhau miếng thịt béo, còn ưng, hùng chỉ cần đỉnh núi cao, khoảng trời trong và dòng nước sạch – chẳng phải chỉ cần một cái cười khẽ khàng thoảng qua đã là đủ tiếu ý rồi hay sao?

Tựa tiếu phi tiếu, bản Tiếu Ngạo Giang Hồ trong phim này, có thể dùng một câu quen thuộc đó để hình dung vậy.

Bài hát cuối phim lại mang đến một sự thú vị khác. Tôi thích lời của nó, đặc biệt là cách vào câu đầu tiên của nam ca sĩ Lưu Hoàn, rất khẳng khái và ngân dài theo một phong cách rất chi là truyền một khúc thiên trường địa cửu. Cảm giác chỉ hai chữ thôi: quá phê! Và tôi thấy bài này với bài hòa tấu cầm tiêu kể trên hợp với nhau thành một bộ đôi khá hoàn hảo. Chúng làm nền cho nhau và nâng cao lẫn nhau, một êm dịu một náo nhiệt, một đơn sắc một đa sắc, khiến cả hai cùng hay lên một cách đáng ngạc nhiên theo chiều dài bộ phim ta xem cũng ngày càng tăng lên.

Dù vậy, khiến tôi nhớ nhất, xao xuyến nhất, nhức nhối nhất, không gì khác hơn Hữu Sở Tư của Doanh Doanh. Tự hỏi không biết đó có phải là do Hứa Tịnh hát thật hay không? Khúc hát quá hay, chan chứa tình nhưng không bi lụy, thờ ơ nhưng da diết, xa cách nhưng thấu hiểu tận tâm can, và nhất là nó thấm đượm tâm tư của những kẻ gửi thân trong chốn giang hồ, bước một bước phải ngẩng nhìn hai chữ “chính phái”, lùi một bước phải ngoái nhìn hai chữ “danh môn”. Và, thật sự phải cám ơn người dịch lời bài hát này, anh Độc Cô Kiếm. Nếu không có lời dịch truyền cảm của anh thì Hữu Sở Tư chưa hẳn đã đi vào lòng người xem một cách dễ dàng như thế.

Tôi vẫn còn nhớ loáng thoáng vài câu, “giang hồ tranh đấu mấy xuân thu/kẻ đến kẻ đi đều là khách”,… Một bài hát phù hợp lồng vào đúng thời điểm sẽ đẩy giá trị biểu đạt của một cảnh phim lên rất nhiều. Về điều này, những người phụ trách âm nhạc cho phim đã làm rất tuyệt vời.

20 thoughts on “Tiếu Ngạo Giang Hồ 2001: Bình mới, rượu cũ, hương vẫn nồng

  1. Mình cũng thích bản 2001 này, mình xem đi xem lại rất nhiều lần rồi đến ko đếm được, cũng có nhiều suy nghĩ như bạn nhưng lại ko có khả năng diễn đạt hay và chi tiết như bạn. Có một điều nữa mình không biết ai là người lồng tiếng, bạn biết ko?

    Like

    • Lúc đầu xem phim chuyển thể từ tác phẩm Kim Dung, Tiếu Ngạo Giang Hồ là bộ mình ít thích nhất, so với những bộ đình đám được dựng đi dựng lại khác như Anh Hùng Xạ Điêu, Thần Điêu Đại Hiệp, Lộc Đỉnh Ký, Thiên Long Bát Bộ, Ỷ Thiên Kiếm Đồ Long Đao,… Nhưng khi xem xong bản 2001 này do Trương Kỷ Trung dựng, thú thật là mình có cảm giác như tỉnh ra luôn, tự dưng thấu cảm được rất nhiều điều về cả cốt truyện và cả các nhân vật. Không dám nói là hiểu đúng hay hiểu hay nhưng nó cứ thôi thúc mình phải viết ra cho bằng được. Và mình vui vì nhờ bài review này mà từ blog cũ qua blog mới cho đến blog này, đã có nhiều bạn vào comment chia sẻ và đồng cảm ^^

      Về người lồng tiếng cho Hứa Tịnh trong những phân đoạn Doanh Doanh hát, tiếc là mình cũng không biết đó là ai. Nhớ lúc còn lang thang đọc mấy topic bàn luận phim bên trang DienAnh.net, đã có lần thấy ai đó nhắc qua chuyện lồng tiếng này nhưng lại không nhớ được :(

      Like

  2. Cái bản phim Tiếu Ngạo Giang Hồ này rất ám ảnh. Hồi lần đầu xem nó là mình đã đọc nguyên tác rồi – Hồi đó chỉ đọc bản dịch của Hàn Giang Nhạn. Lúc đó cảm giác Tiếu Ngạo Giang Hồ cũng như các bộ truyện kiếm hiệp khác thôi, đọc rồi để đó chứ cũng không ấn tượng nhiều.

    Sau khi xem phim này – cũng không biết vì lý do gì – mới bắt đầu đọc kỹ và tìm hiểu nhiều hơn về Tiếu Ngạo Giang Hồ – Cũng có thể lúc trước mình chưa đủ tuổi để cảm nhận nó.

    Ngay bản thân nguyên tác mình cũng đã không hài lòng một số chi tiết – Cái này Kim lão có vẻ không được trau chuốt lắm – nhưng đến nội dung phim thì lại còn phũ phàng hơn nữa, những chi tiết biến động tâm lý quan trọng của Lệnh Hồ Xung không thể hiện rõ ràng làm cho người xem chỉ cảm thấy ức chế về một Lệnh Hồ Xung ngu ngốc. Dù sao đây cũng là nhân vật hư cấu , Tiếu Ngạo cũng là 1 tác phẩm tốn rất nhiều giấy mực để phân tích từng chi tiết rất nhỏ rồi nên nói thêm nữa cũng khó.
    Đôi lúc, mình ghét đọc những thứ liên quan đến Tiếu Ngạo – Doanh Doanh – Hứa Tình .. Mỗi lần động đến nó lại như động vào vết thương cũ, lại phải ngồi hì hụi đọc lại, xem lại, lại đắm chìm vào nó .. rồi lại bần thần mất mấy hôm.

    Thích nhất là đoạn ngõ Lục Trúc: Bước ngoặt của câu chuyện và bước ngoặt của cuộc đời.

    Ghét nhất: Đoạn tỉ đấu trên Phong Thiền Đài – Tung Sơn – Không phải ghét vì Lệnh Hồ Xung vẫn còn mê muội mà Kim Dung rõ ràng đã quá xem thường người đọc rồi. Lệnh Hồ Xung không phải là Trương Vô Kỵ, không thể ngu ngốc như vậy được.

    Chỉ tiếc là chưa có 1 bản nhạc Tiếu Cầm nhạc phổ nào xứng đáng để làm 1 chuẩn mực của Tiếu Ngạo Giang Hồ – Mình nghĩ với miêu tả thì có vẻ giống với Cao Sơn Lưu Thủy. Haizz, ngay cả bản Thanh Tâm phổ thiện chú cũng không có.
    Chẳng hiểu sao rất nhiều người vẫn cho là cái bản nhạc Sáo Cầm khúc năm 1996 lại là Tiếu ngạo giang hồ được. Đúng là 9 người 10 ý.

    Liked by 1 person

  3. Vô tình đi ngang qua đây đọc được bài viết này. Mình cũng là người xem Tiếu Ngạo Giang Hồ (TNGH) 2001 lúc tầm cấp 3, trước đó chưa biết về TNGH nên đây là bản đầu tiên mình xem. Phải nói là rất hay. Đầu tiên mà, quá ấn tượng, nhất là vai Nhậm Doanh Doanh và Lệnh Hồ Xung (mấy năm sau Lý Á Bằng mới đóng trong Anh hùng xạ điêu, nên lúc đó không có việc so sánh Á Bằng với Quách Tĩnh). Sau đó bẵng đi nhiều năm, mình đi nước ngoài, tiếp xúc với văn hoá Tây, rồi dần dần mình bị cái gọi là “identity crisis”. Điều đó dẫn đến việc mình muốn tìm hiểu văn hoá phương Đông, là cái gốc của mình. Vô tình trong 1 lần rảnh rỗi, tự dưng nhớ về vai diễn Nhậm Doanh Doanh nên muốn xem lại bộ này. Quả thật vẫn rất ấn tượng, xem xong mà lòng bồi hồi khôn tả. Sau đó, mình quyết định đọc truyện, và đó thực sự là quyết định đúng đắn nhất của mình. Dù TNGH 2001 là “tình đầu” của mình, nhưng sau khi đọc xong nguyên tác, mình thấy bản TNGH 2001 so với truyện chỉ được 6 trên 10. Phải nói Kim Dung viết bộ TNGH tuyệt vời, hình tượng cũng như các nét triết lý phương Đông được khắc hoạ rất rõ nét và có chủ ý, làm mình vô cùng ngạc nhiên, phaỉ đi tìm hiểu ngay. Té ra, Kim Dung đã có rất nhiều bằng đại học cho đến tiến sĩ về sociology (xã hội học???) và về triết học. Tóm lại, mình nghĩ, nếu bạn có thời gian, bạn có thể đọc nguyên tác. Hồi nhỏ, mình thích TNGH 2001 nhất, mà giờ 30 tuổi đầu, thì với mình, TNGH nguyên tác Kim Dung là hay nhất. Có lẽ mình sẽ còn đọc lại nhiều lần nữa trong tương lai.

    Liked by 2 people

    • Ồ, cám ơn bạn.

      Nói thế nào nhỉ? Mình xem phim chuyển thể từ tiểu thuyết Kim Dung nhiều nhưng chưa một lần nào đọc nguyên tác cả. Trước giờ cũng ít khi nghĩ đến việc ấy. Vì thế tất cả những cảm nhận của mình về tác phẩm Kim Dung chỉ dựa trên những bản phim phục dựng mà thôi. Nhưng comt này của bạn làm mình cảm thấy rất tò mò về nguyên tác của TNGH. Bản phim 2001 quả thật đã khiến mình say đắm lắm, dù nó không phải bản đầu tiên mình biết đến về Tiếu Ngạo.

      Mình sẽ tìm đọc trong thời gian tới. Một lần nữa, xin cảm ơn bạn.

      Liked by 1 person

  4. Thực ra mà nói thì cũng phải thông cảm cho bản TNGH 2001 vì là bản phim đầu tiên được trình chiếu tại Trung hoa Đại lục àm lại còn chiếu trên Truyền hình quốc gia nữa nên khó mà đưa hết những yếu tố xã hội, các hình tượng triết lý vào được. Trung hoa Đại lục có hệ thống kiểm duyệt cực kỳ khắt khe, đến Kim Dung còn phải sửa đi sửa lại mới được phép lưu hành. Trong khi đó TNGH còn là tác phẩm ra đời trong cuộc Cách mạng văn hóa nên ít nhiều có những ẩn dụ được Kim Dung giấu vào đó.
    Về vai diễn LHX của Lý Á Bằng thì mặc dù anh không thể hiện được hết bản tính ngạo nghễ, phóng khoáng nhưng bù lại anh lại đem đến một LHX có chiều sâu, luôn bị dằn vặt bởi những điều đã qua trong quá khứ, luôn bị gánh nặng lương tâm đè nén. Điều tôi thích ở nhân vật LHX phiên bản này là cách xây dựng nhân vật “thiên hạ đệ nhất”: đệ nhất thật thà, đệ nhất hiếu nghĩa, đệ nhất chung tình, đệ nhất thiện tâm. Tiếc là nếu đạo diễn Đỗ Kỷ Trung chắc tay hơn một chút thì Lý Á Bằng đã không ăn gạch nhiều. Giá như trận cuối ông để Doanh Doanh bị thương sau khi Nhạc Bất Quần giết chết Nhậm Ngã Hành rồi LHX xuất kiếm ngay lúc đó thì sẽ hợp lý hơn là việc đứng nhìn một lúc, vô hình dung lại tạo cho người xem cảm giác LHX đợi đến khi người chết, kẻ bị thương mới ra tay thiên hạ đệ nhất (Hay là đây cũng lại là 1 sự hiểu nhầm đáng tiếc mà đạo diễn cố tình gieo vào lòng người xem về con người LHX?).
    Cái hay ở bản TNGH này là việc bị nhưng không lụy. “Người đến, người đi đều là khách” tiếc thương, mong mỏi nhưng không hề sến súa. Lúc mới đầu còn có những phân đoạn tình cảm này nọ nhưng càng về sau càng bị cắt giảm để nhường thời lượng cho những mưu toan hẹp hòi ích kỷ. Chính sự tiết chế đấy khiến người xem không khỏi luyến tiếc quãng thời gian ở ngõ Lục Trúc.
    Diễn xuất của các diễn viên dù chính dù phụ đều chất lượng, cộng với tuyến truyện được tối giản đi khiến cho các nhân vật được thể hiện trọn vẹn hơn. Quân tử kiếm của Ngụy Tư đúng là hình mẫu Ngụy quân tử số 1. Miêu Ất Ất và Lý Giải từ sau cảnh đám cưới diễn xuất cũng tăng lên rõ ràng. Ngoài ra còn nhiều nhân vật phụ khác cũng được thể hiện khá tốt và đồng đều mặc dù chỉ có vài phân cảnh nhỏ.
    Nhạc phim phải nói là quá ấn tượng và hoàn toàn phù hợp với nội dung phim. Bản nhạc “Thiên địa tác hợp” được dùng thay thế trong những cảnh cầm tiêu hòa tấu khúc “TNGH” nhưng bản thân tôi thì cảm giác đó là bản nhạc riêng chứ hoàn toàn không phải “TNGH”. Thực chất người xem chúng ta không được nghe khúc “TNGH”, chúng ta chỉ có thể nhìn người chơi bởi đó là bản nhạc tự tâm, nếu không phải nhân vật trong phim thì không nghe thấy và hoàn toàn không thể hiểu.
    Mà ca khúc lúc LHX đánh Nhạc mất quần trận cuối và ca khúc cuối phim tên là gì thế các huynh?

    Liked by 1 person

    • Bản nhạc trận chiến cuối cùng có lẽ là bản “Nhân tâm vô cùng đại (人心无穷大) do Lưu Hoan trình bày”.

      Ca khúc cuối phim chắc là bản Tiếu Ngạo Giang Hồ do Lưu Hoan, Vương Phi trình bày.

      Liked by 1 person

  5. Mình đọc TNGH từ gần 20 năm truớc, đến mấy hôm vừa rồi vô tình coi lại bộ phim này mà thấy thích ghê. Cả tuần nay coi đi coi lai nhiều lần rồi lên mạng đọc thêm để tìm hiểu nên vô tình tìm được bài viết này của bạn. Bạn viết hay ghê, mình cũng rất thích bài viết về Lục trúc ngõ, Lạc Dương thành và Thanh tâm phổ thiện chú của bạn. Mình cũng như bạn, vô cùng thích bài hát Hữu Sở Tư của Doanh Doanh và cảnh phim lúc Doanh Doanh hát bài này để tiễn Lệnh Hồ Xung. Cảm ơn bạn đã viết ra hai bài review tuyệt hay nhé.

    Liked by 1 person

  6. Tại hạ vô tình đi ngang qua đây, may mắn đọc được bình phẩm này và này nữa:https://ngaybinhthuongthoi.wordpress.com/2015/03/26/luc-truc-ngo-lac-duong-thanh-va-thanh-tam-pho-thien-chu/
    Bình phẩm của các hạ khiến tại hạ vô cùng thích thú và tâm đắc, không thể kìm lòng được nên đành phải nói đôi lời.
    Tại hạ thấy các hạ chắc chắn là 1 người đa tình, dễ đồng cảm, dễ thấu hiểu tâm tư, giống như Lệnh Hồ huynh vậy. Bản thân tại hạ cũng rất thích bộ phim và bộ tiểu thuyết này nhưng đáng tiếc là tài văn chương có hạn nên không thể xuất khẩu thành văn như các hạ được. Nếu như chúng ta mà đang sống trong thế giới của bộ truyện này, chắc chắn tại hạ sẽ kính các hạ 1 chén rượu ngon.

    Liked by 1 person

  7. Cám ơn các đồng đạo võ lâm đã ghé chơi và dành ít nhiều tình cảm cho bài viết này của tiểu nữ :P

    Có thể gợi cho người xem muốn nói về phim và nói hoài không chán cũng là một trong những cái hay của TNGH 2011. Mình thật sự rất ngạc nhiên khi thỉnh thoảng lại nhận được comt cho bài viết này lúc viết ra nó cũng phải cách đây 5,6 năm rồi. Chứng tỏ dù hiện nay có nhiều bản Tân Tiếu Ngạo được làm lại thì TNGH 2011 vẫn có một nét gì đó rất đặc biệt thu hút người xem.

    Cũng phải nói một điều là lúc nhỏ xem phim Kim Dung thấy bình thường nhưng lớn rồi xem lại thì ngộ ra bao điều, lĩnh hội được bao nhiêu cái hay về mặt nghệ thuật kể chuyện cũng như ẩn ý bên trong nội dung. Với mình thì phim chuyển thể từ tác phẩm của Kim Dung đã dừng lại ở loạt phim của đạo diễn Trương Kỷ Trung. Từ đó về sau cũng không hề coi thêm bản tân nào nữa.

    Like

  8. Đọc bài và cmt của các bác mà sướng. TNGH là truyện mình yêu thích và tâm đắc nhất của Kim Dung. Bản dựng phim 2000 cũng là bản thích nhất, dù nó còn nhiều thiếu sót vì là bộ chuyển thể đầu tiên nhưng cái chất thơ mộng của nó rất hợp với tưởng tượng của mình về thế giới giang hồ trong Tiếu Ngạo. Xin phép share bài chủ Blog về nhà mình.

    Liked by 1 person

    • Công nhận luôn, mình rất thích sự mộc mạc và chút gì đó “thô ráp” của bản phim này. Tuy vẫn còn thiếu sót nhưng thật sự rất có cái chất của Tiếu Ngạo Giang Hồ. Càng coi càng ngẫm lại càng thấy hay. Tiếp theo đó là hai bộ Anh Hùng Xạ Điêu và Thiên Long Bát Bộ, còn những bộ sau đó nữa thì giang hồ của Trương Kỷ Trung đã nhiều màu sắc và thơ mộng hơn hẳn, hơi “mượt mà” quá nên mình không còn thích nhiều nữa :))

      Like

  9. Reblogged this on and commented:

    Một bài bình Tiếu Ngạo Giang Hồ vô cùng chính xác và hợp ý mình. Lâu ngày rồi ko xem lại. Chắc nay làm 1 quả marathon rồi viết thôi.

    Liked by 1 person

gởi lại đôi dòng